Liêm Trinh thuộc âm hoả nên chủ về huyết, các bệnh liên quan đến máu.
Cổ nhân cho rằng “nam trọng tinh, nữ trọng huyết”, cho nên Liêm Trinh
cũng chủ về tinh dịch. Xem có bị vô sinh không, người xưa đều xem Liêm
Trinh, bất kể ở cung độ nào. Liêm Trinh ở hãm địa mà gặp Hoả Tinh, Linh
Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, nếu trùng hợp gặp ở cung tử của đại hạn, cung
tật ách của đại hạn, hay cung mệnh của đại hạn, đều đoán là vô sinh.
Từ “huyết” loại suy thành “tinh” thì chủ về mộng tinh, di tinh, thủ dâm, tinh loãng.
Cho nên Liêm Trinh Hoá Kỵ là bệnh về máu huyết, như lạc huyết (xuất
huyết ở miệng từ đường hô hấp hoặc dạ dày mà không ho, không ói), cũng
chủ về gặp sự cố bất trắc có liên quan đến chảy máu, do đó có thể mở
rộng thành bệnh phong cùi, giang mai, bệnh lậu. Ứng nghiệm ôn hoà nhất
là mụn. Nếu gặp các sao hung sát nặng mà còn gặp Vũ Khúc Hoá Kỵ thì chủ
về ung thư máu.
Đối với nữ mệnh lúc Liêm Trinh Hoá Kỵ có thể luận đoán là kinh nguyệt khô ít, huyết trắng, kinh nguyệt không điều hoà.
Liêm Trinh Hoá Kỵ rất kỵ bị Vũ Khúc Hoá Kỵ xung hội chủ về gặp nạn
tai chảy máu. Muốn biết tai ách có nghiêm trọng nhay không cần phải xem
kèm cung mệnh và cung phúc mà định.
Lý luận về bệnh tật của cổ nhân, chia làm âm, dương, biểu, lý.
“Huyết” thuộc âm là thuộc “lý”, đối nhau với “khí”. “Khí” thuộc dương là
thuộc “biểu”. “Biểu””lý” dựa vào nhau vì vậy Liêm Trinh cũng có thể coi
là bệnh về “khí”. Cho nên Liêm Trinh cũng chủ về bệnh phổi, cảm mạo,
ho, gặp Hoả Tinh, Đà La thì bệnh nặng.
Trong các tinh hệ, tinh hệ “Liêm Trinh, Thất Sát” phần nhiều chủ là
chủ về bệnh đường hô hấp, thường gặp nhất là trường hợp có sát tinh đồng
độ, chủ về mũi dị ứng, viêm mũi, nếu sát tinh nặng thì chủ về bệnh viêm
phổi, có Thiên Nguyệt đồng độ thì chủ về bệnh lao, ho gà.
Tổ hợp “Liêm Trinh, Thiên Tướng” gặp các sao sát, kỵ là chủ về bệnh
tiểu đường, sỏi bàng quang, sỏi mật, sỏi thận. Nếu đồng độ Hoả Tinh,
Linh Tinh hoặc đồng cung Địa Không, Địa Kiếp thì chủ về da bị dị ứng,
nấm ngoài da, nghiêm trọng thì chủ về bệnh lupus ban đỏ. Nếu “Liêm
Trinh, Thiên Tướng” bị “Hình Kỵ giáp Ấn” thì chủ về tắt nghẽn đường ống,
cần chú ý các cơ quan đường ống và tuyến nội tiết, có lúc bệnh lại ở
xương tuỷ.
Nếu “Liêm Trinh, Phá Quân” có sát tinh đồng độ, còn chủ về kết sỏi,
nếu có Hoả Tinh đồng độ thì chủ về tai nạn bất trắc làm bị thương, có
Văn Khúc Hoá Kỵ đồng độ sẽ chủ về tai nạn sông nước.
Hễ “Liêm Trinh, Phá Quân” mà chủ về gặp bất trắc đều bị thương ở phần đầu mặt; “Liêm Trinh, Thất Sát” thì đề phòng gãy xương.
Tổ hợp sao “Liêm Trinh, Tham Lang” có các sao sát, kỵ thì chủ về bệnh
ở cơ quan sinh dục, cũng chủ về bệnh thận. Nếu Liêm Trinh Hoá Kỵ và
Tham Lang Hoá Kỵ đồng độ hoặc vây chiếu thì chủ về bệnh thận và bệnh máu
huyết ảnh hưởng lẫu nhau, dễ xảy ra các bệnh biến khác, tình huống xấu
nhất là suy thận, nhẹ thì bị chứng tăng urê-huyết.
Liêm Trinh rất mẫn cảm đối với tứ hoá và sát tinh, cần chú ý tình
huống đại hạn và lưu niên xung hội. Đại khái là rất ngại gặp Vũ Khúc Hoá
Kỵ, cũng rất sợ có Kình Dương, Đà La cùng bay đến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét