Trong 118 vì sao của khoa Tử Vi có hai sao được xem là đặc biệt nhất. Đó
là sao Tuần và Triệt. Tuần Triệt (TT) an theo năm sinh và hàng can của
năm sinh, và đặc biệt là vị trí của Tuần Triệt nằm giữa ranh giới của
hai cung chứ không tọa thủ trong một cung nào như các sao khác. Điểm đặc
biệt thứ hai là vị trí đắc hãm và hành của chúng. Đây cũng là một vấn
đề tranh cãi rất nhiều. Có người cho rằng Tuần thuộc hành hỏa và Triệt
hành kim. Cũng có người cho rằng Tuần và Triệt đều hành thủy. Một số
khác lại cho rằng Tuần và Triệt không có hành cố định, đóng ở cung nào
thì mang hành của cung đó. Như vậy, lập luận này sẽ đưa đến kết qủa là
Tuần Triệt có lúc chỉ có một hành trong trường hợp chúng đóng giữa hai
cung Thân và Dậu đều thuộc hành kim. Nhưng giả sử Tuần Triệt đóng giữa
hai cung Ngọ và Mùi thì thì Tuần Triệt phải mang hai hành Hỏa của cung
Ngọ và Thổ của cung Mùi. Xét cho cùng, điều này xem ra không hợp lý lắm.
Khi nói về ngũ hành, ví dụ như nói về hành của một hướng, như Đông Nam
thì chúng ta nói là Mộc đới Hỏa, hoặc hành của Phượng Các là Mộc đới Thổ
chứ không thấy ai nói vừa mang hành Mộc và mang hành Thổ. Chữ “đới” ở
đây có nghĩa là “nghiêng về” hay “thiên về” Trong cuốn tử vi Ảo Bí của
Việt Viêm Tử, tác giả cho rằng Triệt có hành Kim đới Thủy và Tuần có
hành Hỏa đới Mộc.
Về những vị trí đắc hãm của Tuần Triệt thì cũng có người cho rằng TT chỉ
đắc địa ở Tỵ Ngọ và Thân Dậu, còn những vị trí khác đều hãm địa. Nhưng
điều này cũng không hợp lý vì chúng ta biết Triệt không đóng ở Tỵ Ngọ.
Và cũng theo quan điểm này thì nếu TT đắc địa sẽ không tác hại, còn nếu
hãm địa thì sẽ tác hại. Đây là điều không hợp lý thứ hai. Sau khi nói
đến ý nghĩa của hai sao TT dưới đây, chúng ta sẽ thấy bản chất của TT là
như thế nào.
Tóm lại, người viết đồng ý với quan điểm của Thái Thứ Lang, tác giả của
cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên, “hai sao Tuần Triệt không có những vị trí
đắc địa hay hãm địa và cũng không thuộc một hành nào trong ngũ hành.”
Đầu tiên chúng ta thấy rằng, chỉ với cái tên của hai sao này cũng đã nói
lên rất nhiều ý nghĩa. Tuần có nghĩa là tuần tiểu, tuần phòng, canh
giữ, vây hãm. Triệt là chặc đứt, phá tan, tiêu tán, làm mất hết. Từ đó,
hai sao TT vừa đóng vai trò vừa chính vừa tà, vừa thiện vừa ác đối với
các sao trong cung mà chúng trấn đóng.
Khi nói đến ảnh hưởng của TT, có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ
nhất cho rằng TT làm đảo ngược ý nghĩa tốt xấu của tất cả những sao
trong hai cung mà chúng đóng. Ví dụ: một sao đắc địa gặp TT thì những
đặc tính tốt đẹp của sao này bị mất đi và trở nên hãm. Ngược lại nếu sao
hãm địa gặp TT thì lại trở nên tốt đẹp giống như đắc địa. Như vậy thì
uy lực của TT qúa lớn vì TT không phải chỉ ảnh hưởng lên 1 sao mà chúng
ảnh hưởng lên tất cả các sao mà chúng trấn đóng. Quan điểm đảo ngược này
chúng ta thấy trong một vài trường hợp đặc biệt. Ví dụ: Liêm Tham ở Tỵ,
Hợi rất xấu, nhưng nếu gặp TT thì trở nên tốt đẹp, và được gọi là phản
vi kỳ cách, đổi xấu thành tốt.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng TT không hề đảo ngược ý nghĩa của các sao
trong vòng ảnh hưởng của chúng, mà chỉ giảm bớt những đặc tính tốt xấu
của các sao. Theo thiển ý của người viết, quan điểm này xem ra có phần
hợp lý hơn. Tỉ lệ chiết giảm của Triệt tuy rất cao nhưng cũng chưa đếm
mức độ 100% để có thể thay đổi hẳn bản chất của một sao nào đó. Hơn nữa,
cũng có trường hợp những sao đắc địa mà gặp TT thì lại càng tốt hơn chứ
không hề bị đảo ngược, như trường hợp Cự Cơ ở hai cung Tí Ngọ (Thạch
Trung Ẩn Ngọc) là ngọc còn ẩn trong đá, nếu gặp TT phá vỡ cho ngọc lộ ra
bên ngoài thì càng đúng cách.
Khi nói về mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt hay Mệnh Triệt Thân Tuần, Thái
Thứ Lang đã gián tiếp xác định mức độ ảnh hưởng của TT nói chung. Theo
Thái Thứ Lang, người Mệnh Tuần Thân Triệt cần có Cơ Nguyệt Đồng Lương
đắc địa thứ mệnh thì cuộc đời về già mới được xứng ý toại lòng. Như vậy
chúng ta có thể ghi nhận một điều, đối với Tuần, thà có chính tinh đắc
địa để chấp nhận mức độ tốt bị giảm bớt còn hơn là gặp chính tinh hãm
địa rồi trông chờ Tuần làm cho tốt đẹp.
Đối với người Mệnh Triệt Thân Tuần thì Thái Thứ Lang cho rằng, Mệnh cần
phải Vô Chính Diệu thì lúc về già mới được xứng ý toại lòng. Như vậy
chúng ta thấy rằng, ảnh hưởng của của Tirệt mạnh mẽ hơn Tuần nhiều, cho
nên cung Mệnh thà không có chính tinh vẫn còn tốt hơn có chính tinh, dù
đắc hay hãm địa.
Trên thực tế chúng ta thấy hai sao TT không có uy lực để thay trắng đổi
đen một cách hoàn toàn, chẳng hạn, một người có Thái Dương đắc địa thủ
Mệnh gặp TT thì bản tính của người này không thể trở thành giống bản
tính của người có Địa Kiếp thủ Mệnh được. Nói một cách khác, TT chỉ ảnh
hưởng mạnh mẽ trên lãnh vực công danh, sự nghiệp của đương số chứ không
triệt tiêu được bản chất lương thiện của một Thái Dương vốn đã đắc địa.
Ngoài ra, ảnh hưởng của TT ở mức độ nào còn tùy thuộc vào ý nghĩa của
mỗi sao, hay ý nghĩa của một cách do nhiều sao hợp lại, chứ không hoàn
toàn giống nhau. Chẳng hạn như sao Thiên Hình, Thiên Mã, Thiên Tướng,
Tướng Quân…dù đắc hay hãm cũng tối kỵ TT hơn các sao khác bởi vì kiếm
gãy, ngựa què, tướng mất đầu…thì tất nhiên là vô dụng. Tương tự, Thất
Sát ở Dần thân là người anh hùng một mình một kiếm, nhất hô bá ứng,
nhưng gặp Triệt lại trở thành anh hùng gãy kiếm. Tuy vậy, cũng có những
trường hợp đặc biệt, ví dụ như hai sao Cự Cơ ở Tí Ngọ như chúng ta đã
nói ở trên. Vì ý nghĩa của cách Thạch Trung Ẩn Ngọc cho nên TT lại rất
cần thiết.
Chúng ta vừa nói đến ảnh hưởng của TT trên các sao, còn ảnh hưởng của TT
trên các cung thì như thế nào? Có phải sự ảnh hưởng của TT trên hai
cung mà chúng trấn đóng đều như nhau? Điều này chúng ta cũng có hai quan
điểm:
1. Ảnh hưởng của TT trên mỗi cung nặng hay nhẹ còn tùy thuộc đương số là
Dương Nam, Âm Nữ hay là Âm Nam, Dương Nữ. Nói một cách khác là theo
chiều của vòng đại hạn của mỗi lá số. Ví dụ: Lá số có vòng đại hạn đi
theo chiều thuận, có nghĩa là từ cung Mệnh rồi qua Phụ Mẫu, Phúc Đức
v.v… Và nếu Triệt đóng giữa cung Mệnh và cung Huynh Đệ, như vậy chúng ta
nói là Triệt chặn đầu cung Huynh Đệ và vuốt đuôi cung Mệnh. Khi nói
Triệt chặn đầu một cung nào thì ảnh hưởng của Triệt ở cung đó sẽ mạnh
hơn đối với cung mà Triệt vuốt đuôi, và tỉ lệ ảnh hưởng được xác định
cũng theo nguyên tắc Âm Dương:
Dương hành tam thất (3/7)
Âm quy nhị bát (2/8)
Như vậy, nếu theo chiều thuận của vòng đại hạn thì cung nào bị TT chận
đầu sẽ chịu ảnh hưởng 7 phần, nếu đi ngược sẽ chịu ảnh hưởng 8 phần và
tương tự các cung xung chiếu hay tam hợp chiếu với các cung có TT đóng
cũng chịu ảnh hưởng nặng nhẹ theo nguyên tắc này.
2. Ảnh hưởng của TT phân phối đều trên hai cung mà chúng trấn đóng chứ
không có cung nào nặng hơn cung nào như ý nghĩa của quan điểm thứ nhất.
Người viết đồng ý với quan điểm thứ hai vì chúng ta thấy rằng ảnh hưởng
của TT chỉ khác nhau trên các cung có chính tinh mà thôi. Thường những
cung có chính tinh không nên gặp TT. Trái lại, những cung nào VCD thì
lại rất cần có TT . Trong trường hợp này TT đóng vai trò của một người
giám hộ để bảo vệ cho một gia đình không có gia chủ. Từ đó, chúng ta rút
ra một hệ luận là ảnh hưởng của TT đối với chính tinh có tầm quan trọng
hơn đối với các phụ tinh.
Ngoài ra, TT đôi lúc còn đóng hai vai trò khác nhau, một thiện, một ác.
Chẳng hạn nếu ba cung tam hợp, gọi là tam phương, bị nhiều sát tinh thủ
hay hợp chiếu mà được Triệt đóng thì mọi sự hung hiểm cũng giảm đi rất
nhiều. Ngược lại, bốn cung Mệnh, tài Quan, Di, gọi là Tứ Chính, dù có
đắc cách tới đâu nhưng đã gặp Tuần thì cũng xem như bị phá hết: “Tam
phương vô sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng. Tứ chính giao phù kỵ, nhất
không chi trực phá.”
Và trên đây chúng ta mới nói đến vùng ảnh hưởng của TT, còn thời gian
ảnh hưởng của hai sao này thì như thế nào? Thường có người cho rằng
Triệt ảnh hưởng 30 năm đầu của cuộc đời, Tuần ảnh hưởng 30 năm sau của
cuộc đời. Theo thiển ý của cá nhân, Triệt ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong
khoảng tiền vận, rồi từ yếu dần ở trung vận và hậu vận. Ảnh hưởng của
Tuần thì không có khoảng thời gian nào mạnh hay yếu, cứ ở mức trung
bình, đều đặn và bền bỉ từ tiền vận cho đến hậu vận.
Trường hợp cung Mệnh có Triệt thì ảnh hưởng của Triệt sẽ như thế nào?
Cung Mệnh cũng như các cung khác thông thường có đủ sao xấu và tốt xen
lẫn nhau. Có sao đắc địa, có sao hãm địa. Đối với những sao tốt đắc địa
thủ Mệnh, đương số sẽ gặp sự bất lợi vì Triệt sẽ làm giảm bớt những ý
nghĩa tốt đẹp của các sao này. Sự bất lợi sẽ xảy ra trong thời ky tiền
vận của đương số, và sau đó, khi uy lực của Triệt yếu dần thì sự tốt đẹp
của các sao tốt sẽ được phục hồi ở một mức độ nào đó mà thôi chứ không
thể nào được 100% như trường hợp không bị Triệt.
Ngược lại, trong khoảng tiền vận thì đương số lại được một lợi điểm là,
giả sử, nếu có những hung tinh hay sát tinh thủ mệnh, thì nhờ ảnh hưởng
của Triệt mà đương số tránh được phần nào những điều không tốt do các
hung sát tinh gây nên. Nhưng từ trung vận trở lên, khi Triệt yếu dần,
không còn đủ uy lực để trói buộc hung sát tinh nữa, và sự tốt xấu lúc đó
chỉ còn tùy thuộc vào công lực của các sao tốt và sao xấu, bên nào mạnh
thì chế ngự được bên đó.
Nói chung, Triệt đóng tại Mệnh thì tiền vận (từ lúc sinh ra cho đến 32
tuổi đối với người Thủy Nhị Cục, 33 với Mộc Tam Cục, 34 với Kim tứ Cục,
…) Thường bị lao đao lận đận và dễ gặp hoàn cảnh mồ côi sớm (trường hợp
Triệt đóng giữa hai cung Mệnh và Phụ Mẫu )
Trường hợp Triệt đóng tại cung Thân thì ảnh hưởng của Triệt không có gì
đáng kể vì uy lực của Triệt mất dần trong khoảng trung vận và hậu vận,
có thể xem Triệt như một áng mây, gây rắc rối trở ngại cho đương số
những lúc khởi sự một việc gì mới mà thôi.
Trường hợp cung Mệnh có Tuần đóng thì tất cả những gì tốt đẹp do các sao
tốt mang đến, cũng như những hung họa do hung sát tinh gây ra cho đương
số đều giảm xuống ở mức trung bình, và muốn biết cuộc đời của đương số
thế nào trong khoảng tiền vận thì chúng ta phải đặt cả tốt và xấu lên
bàn cân. Thường người ta cho rằng Mệnh ứng với tiền vận, nhưng thật ra
Mệnh vẫn là cái gốc của đời người, cho nên sau tiền vận, Mệnh vẫn còn
ảnh hưởng ở mức độ nhẹ. Như vậy, khi Tuần đóng ở Mệnh, thì sau khoảng
thời gian của tiền vận những mức độ tốt hay xấu của cung Mệnh do Tuần
chi phối vẫn còn âm hưởng.
Nếu Tuần đóng tại cung Thân thì vấn đề tốt hay xấu cũng tương tự như
trên. Nếu có khắc thì trong trường hợp này là Tuần chỉ chi phối trong
khoảng thời gian trung vận và hậu vận mà thôi.
Nếu cả Tuần và Triệt cùng đóng ở cung Mệnh hay cung Thân thì thế nào? Điều này cũng có hai ý kiến khác nhau.
1. Một số cho rằng khi TT gặp nhau thì sẽ tự hoá giải cho nhau và hai
cung đó xem như không có mặt của TT nữa. Điều này xét ra không hợp lý
lắm bởi vì khoa Tử vi không có những sao nào cùng nhóm lại triệt tiêu
nhau. Những sao cùng nhóm luôn hỗ trợ cho nhau, tốt thì tốt thêm, xấu
thì xấu hơn. Chẳng hạn như Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc, hay hủy hại nặng
nề khi Không Kiếp gặp thêm Hỏa Linh. Chỉ có những sao khác nhóm mới khắc
chế nhau như Thiên Hình khắc chế và làm giảm đi sự lẳng lơ của Đào Hoa.
2. Mệnh có cả TT như một nhà tù có hai ông cai ngục. Ông chính là Triệt,
ông phụ là Tuần. Hết khoảng thời gian của tiền vận khi Triệt về hưu thì
cũng còn ông Tuần cai quản, chứ không hề nhà giam được bỏ ngỏ.
Sau hết, trường hợp chúng ta muốn nói ở đây là những lá số có Tuần đóng ở
Mệnh và Triệt đóng ở Thân mà chúng ta thường nghe là mẫu người Mệnh
Tuần Thân Triệt, hay trường hợp Mệnh Triệt Thân Tuần, thì cuộc dời của
hai mẫu người này như thế nào?
Để có câu trả lời, cách tốt nhất là chúng ta để lên bàn cân từng phần
một rồi cộng trừ các số thành với nhau để có đáp số cuối cùng. Mệnh có
Tuần đóng, nếu Mệnh tốt thì mức độ chiết giảm do Tuần gây ra tương đối
nhẹ nhàng, còn nếu cung Mệnh xấu, thì sự cứu vãn của Tuần cũng không
được bao nhiêu. Những hung sát tinh cũng như những đúa con phá gia chi
tử trong một gia đình bất hạnh. Họa chăng chỉ có người cha là triệt còn
đủ uy lực để chế ngự, chứ còn mẹ Tuần thì không đủ sức.
Qua trung vận và hậu vận thì ứng vào cung Thân. Nếu cung Thân tốt mà có
Triệt đóng thì cũng không gây ảnh hưởng gì đáng kể, có chăng chỉ là
những trở ngại gây rắc rối lúc ban đầu mà thôi. Trường hợp nếu cung Thân
xấu thì Triệt ở đây cũng như người nộm dùng để dọa chim chứ không có
năng lực gì đáng kể. Như vậy, nếu người Mệnh Tuần Thân Triệt mà có cung
Thân tốt đẹp thì về già cuộc đời cũng đạt được nhiều mãn nguyện.
Trường hợp đối với những người Mệnh Triệt Thân Tuần thì cũng tương tự.
Mức độ tốt xấu của cung Mệnh sẽ bị chiết giảm nhiều hơn, và sự ảnh hưởng
này chỉ xảy ra trong khoảng tiền vận mà thôi. Rồi từ đó cho đến hết
cuộc đời, ảnh hưởng của sự tốt xấu trên cung Thân chỉ ở mức độ ôn hoà.
Như vậy đối với mẫu người Mệnh Triệt Thân Tuần thì thời gian thử thách
nhất là thời thanh xuân, sau đó, nếu cung Thân tốt đẹp thì cuộc đời
tương đối cũng được bình ổn.
Tuy nhiên, người Mệnh Tuần Thân Triệt, hay Mệnh Triệt Thân Tuần cũng có
những trường hợp đặc biệt như, nếu cung Mệnh hay cung Thân VCD mà có
Tuần hay Triệt đóng thì tốt hơn là không có TT. Hoặc là cung Mệnh vừa có
cả Tuần lẫn Triệt vừa thêm hai sao Thiên Không và Địa Không, tùy theo
có bao nhiêu sao KHÔNG, chúng ta gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị không, tam
không hay tứ không, đều là những cách hoạch phát. Hoặc là nếu TT đóng
tại Mệnh hay Thân mà hai cung này VCD lại được Nhật Nguyệt hợp chiếu thì
cũng rất tốt đẹp.
Tóm lại, TT là hai sao đặc biệt nhất trong 118 sao của khoa Tử Vi, và
cũng đã trở thành đề tài tranh luận rất nhiều. Nhưng tốt nhất là tùy
theo kinh nghiệm thực tiễn mà mỗi người tự chọn cho mình một quan điểm
riêng. Dù sao, khi nói đến TT, chúng ta đều thấy ảnh hưởng tốt xấu của
hai sao này trên một lá số nào đó không phải là điều đơn giản. Giống như
một người bị bệnh phải uống thuốc, như người bị chứng đau nhức phải
uống thuốc giảm đau. Nhưng khi uống thuốc giảm đau nhiều thì lại sinh ra
chứng đau bao tử, uống thuốc chữa bệnh đau bao tử nhiều thì lại sinh ra
chứng bất lực.. Ảnh hưởng của TT cũng tương tự như vậy, giúp ta bên này
thì phá bên kia, và có lẽ cái thâm sâu của khoa Tử Vi là ở chổ đó
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét