Lịch
sử hình thành và phát triển của Tử Vi không rõ ràng, mà cũng không cần
chú ý quá. Hoàn toàn không biết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhận thức
Tử Vi. Nếu hứng thú thì có thể tìm thấy tư liệu phát triển 40 năm gần
đây, nhưng đó cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Phát triển trọng yếu
bắt đầu khoảng mười năm trước, khi Tuệ Tâm trai chủ giới thiệu Tử Vi
trên Trung Quốc thời báo cho đến ngày nay. Bộ phận phát triển này hết
sức có giá trị. Để giới thiệu và nghiên khảo, người viết có thời gian
sẽ ở phần sau giới thiệu, tên bài là “Sự phát triển của khoa Tử Vi
trong mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất”. (dịch giả
chú = dgc: Bài này đã dịch đăng trên tuvilyso. Đoạn này giúp cho ta
biết tác giả bài này không phải là ông Tử Vân. Vậy thì hẳn phải là một
người muốn xiển dương cách luận Tử Vi của ông Tử Vân, hy vọng là nắm
vững cách luận này).
Trong
việc tập luyện Tử Vi, theo lý giải hôm nay của người viết (dgc: Tức
người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả), thì các
điểm quan trọng có thể phân thành vài loại: Một là tính chất tinh đẩu,
hai là biến hóa của tứ Hóa, ba là biến hóa của các cung.
Một: Tính chất tinh đẩu
Khi
an lá số Tử Vi, trên lá số các danh từ như Tử Vi, Thiên Cơ, Thái
Dương, Cự Môn, Thiên Phủ Hỏa Tinh, Văn Xương v.v… đều chỉ các sao. Nói
chung, những sao này chỉ là “phù hiệu tượng trưng”, không hề đại biểu
rằng các “sao” này có quan hệ với khoa thiên văn học, bởi vậy một số
người nói Tử Vi dùng “sao ảo” (dgc: phóng dịch từ Hán Việt “hư tinh”)
là cốt đại biểu ý ấy.
Tử
Vi nghe nói có hơn trăm sao, kỳ thật thường dùng không quá khoảng 40
sao, còn lại xem cho đẹp mà không mấy khi dùng. Việc này sẽ đề cập thêm
sau. Sao của Tử Vi có tính chất đa diện, ở mỗi cung khác nhau được diễn
giải khác nhau, nhưng đặc tính cơ bản thì chẳng có gì thay đổi, chẳng
hạn: Thiên Cơ đại biểu linh hoạt, cơ động, hoạt bát, tư lự v.v…; ở cung
mệnh biểu thị người thông minh, cơ trí, linh hoạt…; ở phu thê biểu thị
người có cảm tình bất định, dễ đổi thay; ở tài bạch là người linh
hoạt, có nhiều cách làm ra tiền v.v…
Về
tính chất sao đặc biệt chú ý “cách cục”. Cách cục là kết quả do một số
sao cùng hội chiếu mà sinh ra, tác dụng có điểm tương tựa phản ứng hóa
học, so với phản ứng “vật lý đơn thuần” -sao độc thủ- thì quan trọng
hơn nhiều, chẳng hạn “Cự Kình Hỏa chung thân ích tử” đại biểu người
hành sự tâm lý gấp vội,
kịch liệt, không được việc, tự tìm phiền não, đến mức chẳng lùi được
nữa. Có điểm cần đặc biệt chú ý: Các cách cục này phải được tứ Hóa dẫn
động mới tính, bằng không thì không có tác dụng; Nhớ kỹ, nhớ kỹ!
Phương
pháp nhớ đặc tính các sao thì như bát tiên quá hải, mỗi người hiển thị
một phép thần thông (dgc: Ý muốn nói mỗi người phù hợp một cách học
nhớ khác nhau), nhưng người viết có một số phép nhớ nhanh, biết đâu có
thể giúp cả nhà một tay, sẽ trình bày sau.
HAI: Biến hóa của tứ Hóa
Tác
dụng của tứ Hóa là đặc điểm của khoa Tử Vi, mười phần quan trọng,
nhưng lại liên hệ cực kỳ mật thiết với đặc tính của các sao. Tứ hóa là
bốn đặc tính hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa, hóa Kỵ. Nói giản dị: Hóa Lộc
là thuận lợi, hưởng thụ, đạt được; hóa Quyền là kiên định, chấp trước,
quyền lực; hóa Khoa là thanh danh, học vấn; hóa Kị là khốn khó, trở
ngại, không dễ dàng.
Điểm
quan trọng của tứ Hóa là ở chữ “hóa”. Hóa ý là “biến thành”, hoặc là
tăng cường một loại tín hiệu nào đó. Cho nên lấy Cự Môn làm thí dụ thì:
Cự hóa Lộc đại biểu vì miệng lưỡi mà có tiền tài, nên có thể là người
diễn giảng, dạy học, cố vấn pháp luật v.v… Nếu hóa Quyền thì đại biểu
lời nói có quyền uy, hễ nói là làm, nói được ngưòi nghe v.v… hóa Kị thì
biểu thị lời nói phạm kẻ khác, vì lời nói mà xảy chuyện phong ba v.v…
Chú ý một chút, đặc tính không hóa Khoa của Cự Môn. Người có mồm có
miệng chẳng phải đến nơi nào cũng nổi danh sao?
Tứ
Hóa cần phải nối kết vào cung vị mới xem được việc, cho nên hai yếu tố
này khó mà tách rời nhau; nhớ kỹ, nhớ kỹ! Thậm chí chỉ dựa theo sao
được hóa của tứ Hóa và cung vị đã có thể đoán một số chuyện quan trọng,
sự kiện này sẽ được thuyết minh trong phần cung vị biến hóa.
Gần
đây một số người đã bỏ Quyền Khoa, chỉ dụng Lộc Kị. Những người này do
Liễu Vô cư sĩ đại biểu. Kỳ thật cách xem của ông không hoàn chỉnh.
Ngoài hóa Lộc hóa Kị ra, hóa Quyền và hóa Khoa cũng có tác dụng nhân
sinh trọng đại. Không tất yếu nhất định dựa vào việc này phê phán người
ta.
Bảng
tứ hóa như : Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Vi Nguyệt v.v… thì
nhất định phải nhớ. Cách an tứ hóa có một số quy tắc, như hiện tại đã
được chỉnh lý (dgc: không rõ nghĩa). Phần này có thể tham khảo tư liệu,
như : Tử Vi đẩu số đạo độc – Tinh diệu giải thuyết thiên, Trần Thế
Hưng, Tiêm Đoan xuất bản xã, trang 170 đến 187.
BA: Biến hóa của cung vị
Lá
số Tử Vi cộng lại có 12 cách, nhưng có 13 cung, phân biệt là mệnh,
thân, huynh đệ, tử nữ (dgc: tức tử tức), tài bạch, tật ách v.v… Trong đó
thân có thể ở 6 cung vị là mệnh, phu thê, tài bạch, thiên di, sự
nghiệp (dgc: tức quan lộc), phúc đức. Mỗi cung vị đại biểu một phương
diện hoặc quan hệ. Tử Vi chia đời sống ra 12 phương diện để nghiên cứu;
tỷ như cá tính, tình bạn, liên hệ anh chị em, ái tình; tình thân về
phương diện luân lý, như phụ mẫu, tử nữ hoặc là cái nhìn về việc truy
cầu tài phúc, quan hệ nhân tế, quan niệm công danh mạnh hoặc yếu, phẩm
chất nơi cư trú, đòi hỏi sinh hoạt tinh thần v.v… là đời sống, nên
nghiên cứu đời sống cũng khởi từ những điều ấy.
Vì
cung vị đại biểu sự phát sinh của vụ việc, cho nên có lúc đại biểu dấu
tích trùng trùng của tâm thái. Nếu kết hợp với tứ Hóa thì có nhiều vụ
việc phát sinh; chẳng hạn: Một người cung phu thê hóa Kị, nhưng đại hạn
phu thê hóa Lộc, sự kiện này thông thường biểu thị người ấy dễ sinh
chuyện ngoại tình; có thể giải thích rằng quan niệm về cảm tình không
đúng, lại có cơ hội hưởng thụ tình cảm. Nếu đã thành hôn thì dễ sinh
chuyện ngoại tình; nếu chưa thành hôn dễ bỏ nhau hoặc phát sinh hiện
tượng lo sợ (dgc: dịch tạm thôi vì không rõ “đảm tâm đích hiện tượng” ở
đoạn này ám chỉ gì; hay muốn nói trong khi yêu mà lòng bất ổn?)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét