Hầu hết các thầy Tử Vi đều khởi Trường Sinh tại Dần Thân Tỵ Hợi căn cứ theo Cục, Dương Nam Âm Nữ thì theo chiều thuận, Âm Nam Dương Nữ thì theo chiều nghịch. Theo giải thích của thienkhoitimvui, một cao thủ lý số và là một hội viên của diễn đàn Mệnh Lý Tổng Quát trên website Tử Vi Lý Số tại www.tuvilyso.net thì “Về cách an TSinh theo lối Tử Vi truyền thống và Phổ dụng nhất này, thì tôi khẳng định ấy là thuyết Tsinh như Gốc vậy. . .” và “Ngay như lối Tsinh của Tử Vi truyền thống, phổ dụng, cũng đã có sự triển khai riêng một chút so với Lí Thuyết TS gốc, ấy là có trường hợp đi nghịch, trong khi Lí Thuyết gốc chỉ tính thuận.” Như vậy thì, căn cứ theo sự giải thích của thienkhoitimvui, phái thứ nhất còn gọi là phái truyền thống gốc chỉ an vòng sao Tràng Sinh theo chiều thuận chứ không có chiều nghịch cho Âm Nam và Dương Nữ.
Phái thứ hai, phái “truyền thống” và “đi nghịch,” điển hình có Tử Vi Gia Vân Đằng Thái Thứ Lang. Theo chỉ dẫn của ông [trích trong Tử Vi Đẩu Số Tân Biên] thì cách an vòng sao Tràng Sinh như sau:
- Kim Cục an Tràng Sinh tại Tỵ;
- Mộc Cục an Tràng Sinh tại Hợi;
- Hoả Cục an Tràng Sinh tại Dần;
- Thủy Cục an Tràng Sinh tại Thân;
- Thổ Cục an Tràng Sinh tại Thân; và
- Sau khi an sao Tràng Sinh xong thì Dương Nam-Âm Nữ theo chiều Thuận, Âm Nam Dương Nữ theo chiều Nghịch mà an lần lượt 11 sao còn lại của vòng Tràng Sinh.
- Dương Nam & Âm Nữ, Mộc Cục -- an Tràng Sinh tại Hợi, an theo chiều kim đ/h;
- Dương Nam & Âm Nữ, Kim Cục -- an Tràng Sinh tại Tỵ, an theo chiều kim đ/h;
- Dương Nam & Âm Nữ, Hỏa Cục -- an Tràng Sinh tại Dần, an theo chiều kim đ/h;
- Dương Nam & Âm Nữ, Thủy Cục -- an Tràng Sinh tại Thân, an theo chiều kim đ/h;
- Dương Nam & Âm Nữ, Thổ Cục -- an Tràng Sinh tại Thân, an theo chiều kim đ/h;
- Âm Nam & Dương Nữ, Mộc Cục -- an Tràng Sinh tại Mão, an ngược chiều kim đ/h;
- Âm Nam & Dương Nữ, Kim Cục -- an Tràng Sinh tại Dậu, an ngược chiều kim đ/h;
- Âm Nam & Dương Nữ, Hỏa Cục -- an Tràng Sinh tại Ngọ, an ngược chiều kim đ/h;
- Âm Nam & Dương Nữ, Thủy Cục -- an Tràng Sinh tại Tí, an ngược chiều kim đ/h;
- Âm Nam & Dương Nữ, Thổ Cục -- an Tràng Sinh tại Tí, an ngược chiều kim đ/h; và
- Sau khi an sao Trường Sanh, thứ tự an 11 sao còn lại theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ.
- Khởi tại Dần cho Dương Nam và Âm Nữ rồi an theo chiều kim đồng hồ 11 sao còn lại;
- Khởi tại Ngọ cho Âm Nam Dương Nữ rồi an ngược chiều kim đồng hồ 11 sao còn lại.
- Tử Vi Thủy Cục ăn vào Tam Hợp Thủy Cục Thân-Tí-Thìn;
- Tử Vi Mộc Cục ăn vào Tam Hợp Mộc Cục Hợi-Mão-Mùi;
- Tử Vi Hỏa Cục ăn vào Tam Hợp Hỏa Cục Dần-Ngọ-Tuất; và
- Tử Vi Kim Cục thì ăn vào Tam Hợp Kim Cục Thân-Tí-Thìn.
- Sinh-Vượng-Mộ của Tử Vi Thủy Cục ăn vào Thân-Tí-Thìn của Tam Hợp Thủy Cục;
- Sinh-Vượng-Mộ của Tử Vi Mộc Cục ăn vào Hợi-Mão-Mùi của Tam Hợp Mộc Cục;
- Sinh-Vượng-Mộ của Tử Vi Hỏa Cục ăn vào Dần-Ngọ-Tuất của Tam Hợp Hỏa Cục; và
- Sinh-Vượng-Mộ của Tử Vi Kim Cục ăn vào Tỵ-Dậu-Sửu của Tam Hợp Kim Cục.
H34: Tương Quan Giữa Tam Hợp Cục, Tử Vi Cục & Vòng Tràng Sinh
Nhìn vào hình H34 không khó cho người ta nhận ra tính cách chặt chẽ và trọn vẹn trong cấu trúc của đồ hình cũng như trong tương quan giữa Tam Hợp Cục với Tử Vi Cục và với Vòng Tràng Sinh. Nó cũng cho thấy sự hoàn hảo và nhất quán trong sự tổng hợp/ liên kết các phần tử lại với nhau. Đồng thời cũng không khó cho người ta nhận ra và đặt nghi vấn: Làm sao Hỏa có thể sinh Kim? Làm sao có thể Sinh ra ở Hỏa mà Vượng được ở Kim?
Bằng vào lý thuyết sinh khắc của ngũ hành phổ cập thì dĩ nhiên là không thể tìm ra câu trả lời. Đó là lý do tại sao học giả NVTA gán cho hai chữ “bí ẩn.” Còn những lý luận tùy tiện thiếu “ngay thẳng” và những vay mượn từ bên ngoài để miễn cưỡng giải thích thì chỉ làm cho mọi việc vốn đã mù mờ càng thêm mù mờ. Đó là lý do vì sao học giả NVTA nói là “gọt chân cho vừa giày.”
Như đã nói nhiều lần trong bài viết này và ở những bài viết khác, như đã chứng minh trong bài viết này và ở những bài viết khác, cái [Hỏa sinh Kim] dường như là bất hợp lý trên không phải là lỗi trong cấu trúc, cũng không phải là lầm lẫn của cổ thánh sáng tạo ra nó, mà là bằng chứng tố cáo sự thất bại thảm hại của lý thuyết ngũ hành phổ cập của người đời sau. Hay nói một cách khác, toàn bộ cấu trúc của hình H34 [tức là toàn bộ cấu trúc của tam hợp cục + sự phối hợp/ liên kết tam hợp cục với Tử Vi Cục và vòng Tràng sinh] không được kiến tạo trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành phổ cập mà người đời sau cứ cố đem lý thuyết ngũ hành phổ cập ra mà giải thích thì làm sao không có chỗ bí.
Nếu không được kiến tạo trên nền tảng của ngũ hành phổ cập thì nó được kiến tạo trên nền tảng nào? Câu trả lời, như đã từng trả lời trước đây: nó được kiến tạo trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy, như được trình bày trong cuốn Việt Dịch của Hà Hưng Quốc.
H34: Tương Quan Giữa Tam Hợp Cục, Tử Vi Cục & Vòng Tràng Sinh
H35: So Sánh Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập Với Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy
So sánh hai hình trên, chúng ta sẽ thấy ngay điều gì? Chẳng phải đã quá rõ ràng là H34 khế hợp với hình bên phải của H35 đến mức độ không cần thêm lời giải thích nào nữa đó hay sao? Và như vậy thì, không phải là H34 được kiến tạo trên nền tảng của thuyết ngũ hành nguyên thủy đó hay sao? Tinh Lịch Khảo Nguyên có viết rằng “Mộc Tràng Sinh ở Hợi, Hỏa Tràng Sinh ở Dần, Kim Tràng Sinh ở Tỵ, Thuỷ Tràng Sinh ở Thân, Thổ cũng Tràng Sinh ở Thân, sống nhờ ở Dần. Tất cả từ Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đái, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng, thuận kinh qua 12 thời. Thiên Đạo tuần hoàn, sinh sinh không ngừng.” Như vậy không phải là Lý Quang Địa đã mô tả cái vòng tròn “sinh sinh không ngừng” của H34 đó hay sao? Tinh Lịch Khảo Nguyên cũng có viết rằng “Cho nên phương Mộc vượng mà Hỏa đã sinh; phương Hỏa Vượng mà Kim đã sinh, phương Kim vượng mà Thuỷ đã sinh, phương Thuỷ vượng mà Mộc đã sinh.” Câu này không phải là Lý Quang Địa đã mô tả cái vòng tròn “sinh sinh không ngừng” của mô hình lý thuyết ngũ hành nguyên thủy trong H35 đó hay sao? Và, đúng như vậy, các bạn không đọc lầm! Lý Quang Địa đích thực đã viết “Hỏa vượng mà sinh Kim.” Ngay trong cụm chữ này đây không phải là nó đã phủ nhận vai trò của lý thuyết ngũ hành phổ cập trong cấu trúc của H34 rồi hay sao? Và đồng thời, không phải là đã xác nhận một sự thật không thể chối cải là cấu trúc của H34 được kiến tạo trên nền tảng của một lý thuyết khác: lý thuyết ngũ hành nguyên thủy, giống như trong hình H35 đó hay sao? Và sau cùng “Từ Tràng Sinh thuận đẩy lên, nhỏ bé non nớt tất nhiên lớn mạnh, mới vượng thịnh thì tất suy nhược, dứt hết mới quay trở lại bắt đầu, vận động không cùng. Cho nên đó là đạo lý khiến cho Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa đan xen nhau vận hành, cho nên khí của Ngũ Hành thuận bày ra . . .” trình bày cái mốc để liên kết hai đoạn trên với nhau và cũng là liên kết mô hình H34 với H35.
Nếu chúng ta khảo cứu rộng hơn thì chúng ta sẽ nhận ra cách an vòng sao Tràng Sinh trong những bộ môn khác cũng hoàn toàn tựa trên nền móng của ngũ hành nguyên thủy. Thí dụ như Hiệp Kỷ Biện Phương Thư có nói là cách an vòng sao Tràng Sinh trình bày trong đa số các sách Hán như sau:
- Dương Thủy: Sinh Thân Vượng Tý Tử Mão Mộ Thìn;
- Âm Thủy: Sinh Mão Vượng Hợi Tử Thân Mộ Mùi;
- Dương Mộc: Sinh Hợi Vượng Mão Tử Ngọ Mộ Mùi;
- Âm Mộc: Sinh Ngọ Vượng Dần Tử Hợi Mộ Tuất;
- Dương Hỏa: Sinh Dần Vượng Ngọ Tử Dậu Mộ Tuất;
- Âm Hỏa: Sinh Dậu Vượng Tỵ Tử Dần Mộ Sửu;
- Dương Kim: Sinh Tỵ Vượng Dậu Tử Tý Mộ Sửu; và
- Âm Kim: Sinh Tý Vượng Thân Tử Tỵ Mộ Thìn
H36: An Nghịch Chiều Theo Vân Đằng TTL
H37: An Nghịch Chiều Theo Hà Lạc Dã Phu, Thiên Lương, Thiên Phúc
H38: An Nghịch Chiều Theo Đa Số Hán Thư
Kết Luận: Với vòng tròn thuận chiều kim đồng hồ Thủy -> Mộc -> Hỏa -> Kim -> trung ương Thổ kết hợp với vòng tròn nghịch chiều kim đồng hồ Kim -> Hỏa -> Mộc -> Thủy -> trung ương Thổ thì khẳng định không phải là cấu trúc ngũ hành của lý thuyết ngũ hành phổ cập. Đây chẳng phải là bằng chứng bất khả phủ nhận sự sai lạc của ngũ hành phổ cập hay sao? Đây chẳng phải là bằng chứng cho thấy ngũ hành nguyên thủy của Việt Dịch mới chính là nền móng của những cấu trúc trên hay sao?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét